Lại một mùa hè nữa đến với bao nhiêu niềm vui, háo hức. Nếu
bạn có dự định đi nghỉ mát cùng người thân, gia đình thì Cửa Lò sẽ là một lựa
chọn tuyệt vời với vẻ đẹp còn nguyên sơ hòa quyện cùng biển xanh cát trắng nắng
vàng. Để khám phá Cửa Lò này thì bạn có thể đặt tour
Cửa Lò 3 ngày 2 đêm , tour
Cửa Lò 2 ngày 1 đêm hoặc tour
Cửa Lò 4 ngày 3 đêm của Tour Cửa Lò Giá Rẻ - Du Lịch Kỳ Việt. Nếu bạn
không thích sự gò bó của tour thì có thể tham khảo kinh nghiệm du lịch Cửa Lò
nhé. Trong bài viết này, tour Cửa Lò Giá Rẻ sẽ giới thiệu tới các bạn “ Những đặc
sản ở Cửa Lò phần II ”
1. Cháo Nghêu Cửa Lò
Món ngao nấu canh được khá nhiều người biết đến nhưng với
cách nấu tại vùng biển Cửa Lò thì thật sự khác biệt. Từ nguyên liệu,
gia vị cho đến cách chế biến đều đem đến cho người thưởng thức những cảm nhận mới
lạ. Có lẽ, chính những đặc trưng ẩm thực vùng miền đã khiến bát canh ngao trở
nên ấn tượng với du khách gần xa. Trong cảm nhận chung của du khách, bát canh
ngao bình dị ăn kèm cà muối như xua đi cái nắng gắt gao của miền Trung đồng thời
khiến chuyến đi thêm phần thú vị.
Cháo nghêu Cửa Lò
Thông thường người Hà Nội nấu canh ngao, hến bao giờ cũng luộc
sơ, tách bỏ vỏ chỉ lấy phần thịt nấu canh. Canh ngao Cửa Lò khiến du khách tròn
mắt ngạc nhiên khi bắt gặp những con ngao còn nằm nguyên trong vỏ. Thú vị nhất
là việc vừa xì xụp húp canh vừa đưa tay nhặt ngao, nhẩn nha tận hưởng phần thịt
ngao tươi, ngọt, dai dai còn nguyên vị biển.
Gia vị cho món canh ngao tại đây cũng thật khác biệt. Thông
thường bát canh ngao chua của người Hà Nội dùng me, thêm chút hành hoa thì bát
canh ngao Cửa Lò lại xuất hiện rất nhiều gia vị mới lạ. Vị chua được tạo ra bởi
quả chay phơi khô. Người dân ở đây không dùng hành lá nấu canh mà thay vào đó
là lá lốt, lá dấp cá. Chính vì vậy, nếu là người khảnh ăn du khách sẽ khó mà
thích nghi với hương vị đặc biệt của bát canh. Ấn tượng nhất có lẽ là vị chát
được tạo bởi đôi ba quả sung. Chính vị chát nhẹ dịu, duy nhất có trong bát canh
ngao Cửa Lò này đã tạo sự khác biệt, gây tò mò với nhiều du khách khi tới đây.
2. Bánh Đúc
Đã là quà quê thì cái gì cũng ngon cũng quý. Bởi thế, với
người Nghệ An thì món bánh đúc là hảo hạng, đặc sản trên cả tuyệt vời. Bởi thế,
người xứ Nghệ vẫn kháo nhau không chỉ bởi hương vị đậm đà của bánh đúc mà còn
công nhận rằng: Bánh đúc chứa đựng một thứ văn hóa đặc biệt, như thể nó đại diện
cho hình bóng quê nhà.
Bánh đúc Cửa Lò
Bánh đúc được làm từ gạo tẻ trắng, phải là những hạt gạo tẻ
đều đều, không pha lẫn với những hạt gạo khác. Gạo đem giã thành bột, rây cho
nhỏ, rồi ủ kỹ để qua đêm cho bột nở đều. Lấy một hòn vôi bằng quả cà
pháo, bỏ vào nước cho tan, đánh đều, để lắng rồi gạn lấy nước trong. Bột gạo trộn
với nước vôi trong, đổ vào nồi quấy nấu cho chín. Thứ bột khi đã chín thì có thể
chế biến thành nhiều dạng, đổ ra lá chuối thành từng tảng, đổ ra đĩa, có thể
làm nhiều tầng hình tròn, tầng dưới có đường kính rộng hơn tầng trên, thành
hình cái tháp chín lớp.
Vào những ngày giỗ, ngày Tết, bánh được làm cầu kỳ hơn là
mua thêm thịt lợn nạc, băm nhỏ, rim chín, thái nhỏ hành lá, đổ lẫn vào nồi bánh
khi còn ở trên bếp. Bột chín đổ ra thành bánh đúc có nhân thịt, hành, có nơi
người ta cho đậu phộng vào nấu cùng để có bánh đúc đậu.
Người ta khoái ăn bánh đúc chấm với nước mắm cáy, nước mắm
cua đồng pha với chanh, ớt hoặc chấm tương. Ăn miếng bánh mềm dẻo trong miệng,
người ta thấy hương vị thân quen của bột gạo ngon, vị đậm gần gũi của thịt, vị
mặn, chua, cay của gia vị. Bánh ngon là bánh dẻo, không ướt, không khô, không bị
"khê". Làm bánh đúc cũng đòi hỏi nhiều công sức và kinh nghiệm,
quan trọng nhất là chọn gạo và ủ bột.
Ngày nay, nhiều gia đình còn dùng bánh đúc chay thay cơm,
không đòi hỏi phải có nhiều thức ăn mà vẫn thấy ngon, no bụng, rẻ tiền. Ở quê
nhà, vào ngày giỗ, ngày Tết mỗi nhà đều bỏ ra một ngày, hì hục chọn gạo, xay bột,
làm bánh. Một ngày đó, mỗi người trong gia đình, trong thôn xóm thật đầm ấm
thân tình bên những câu chuyện làm ăn, chuyện gia đình, chuyện chăn nuôi, trồng
trọt.
3. Cháo Lươn
Xứ Nghệ vốn nổi tiếng là vùng đất lươn với loại lươn đồng
mình thon, thịt chắc, “hai vành” vàng bụng đen hơn hẳn lươn ở xứ khác. Lươn đã
được chế biến khéo léo dưới những bàn tay tài hoa của người đầu bếp để thành
bát cháo lươn thơm ngon đặc biệt. Cháo lươn là một trong những món ăn đặc sản của
xứ Nghệ. Không chỉ người dân xứ Nghệ yêu thích món cháo này, mà người ở nhiều
vùng quê khác cũng đã biết tiếng và không bỏ lỡ dịp thưởng thức khi có điều kiện.
Cháo lươn Cửa Lò
Đầu tiên, lươn được làm sạch nhớt, đem luộc rồi gỡ lấy thịt.
Lươn ở đây không mổ bằng dao mà dùng cật tre để rọc thịt lươn. Khâu chế biến tưởng
chừng như đơn giản mà rất kỳ công. Nếu ở miền Nam, món ăn nấu từ thịt lươn bao
giờ cũng đi liền với sản thì Nghệ An, đồng hành với lươn là nghệ. Màu vàng tươi
của nghệ không chỉ đem lại cho thịt lươn vẻ hấp dẫn đặc biệt mà hương vị của
nghệ còn làm cho thịt lươn thêm đậm đà, thơm, ngọt. Nghệ đã góp phần xua tan đi
cái vị tanh cố hữu của lươn.
Lươn ở đây không mổ bằng dao mà dùng cật tre để rọc thịt
lươn
Thịt lươn sau khi luộc chín được xào với nghệ, ớt băm nhỏ,
hành phi, hạt tiêu và nhất là không thể thiếu được những cọng hành tăm chỉ mọc ở
vùng Nghệ An, Hà Tĩnh. Cũng như nghệ, thứ hành tăm lá nhỏ xíu chỉ có ở vùng đất
xứ Nghệ này không chỉ “làm đẹp” cho bát cháo sánh ngọt với màu xanh rất ngon mắt
mà còn tạo cho cháo lươn Nghệ An có hương vị đặc biệt riêng bởi vị ngọt thơm,
cay nồng rất đặc trưng. Khác với cách chế biến món cháo lươn ở Hà Nội, người chế
biến cháo lươn ở Nghệ An không xào thịt lươn đến săn khô. Miếng thịt lươn được
lọc to bản, vuông vức, khi xào xong vẫn mềm, ngọt, thấm đẫm vị thơm cay của
hành, ớt, tiêu, óng ánh sắc vàng của nghệ, điểm màu xanh của lá hành tăm, lá
răm, chỉ nhìn thôi cũng đủ thấy hấp dẫn.
Cháo cũng được nấu rất kỳ công, và đặc biệt. Người ta đạp đạp
hoặc băm nhuyễn xương sống của con lươn, nấu lấy nước súp, rồi lọc bỏ xương vụn
đi, sau đó mới đem ninh cháo. Nhờ có nước ngọt nấu từ chính xương sống của con
lươn nên cháo lươn Nghệ An có vị ngọt rất riêng: đậm nhưng lại rất thanh, không
thấy vị béo của mỡ, khác hẳn với vị ngọt của cháo nấu từ thịt gà hay xương lợn.
Gạo để nấu cháo cũng được chọn kỹ lưỡng. Loại gạo tẻ nào ngon nhất mới được người
Nghệ An chọn để nấu cháo lươn. Sự kỳ công của công đoạn ninh cháo thể hiện ở chỗ
gạo phải được rắc từ từ để cháo không vón cục và người nấu tuyệt đối không được
dùng đũ để cháo không bị nát hay bị nồng. Đặc biệt hơn nữa, người xứ Nghệ để
nguyên hạt gạo mà ninh cháo chứ không giã nhỏ hay xay gạo thành bột. Cháo ninh
thật kỹ, hạt gạo nở bung mà không nát, cháo sánh đều, không đặc cũng không
loãng.
Loại gạo tẻ nào ngon nhất mới được người Nghệ An chọn để nấu
cháo lươn
Khi ăn, người ta múc cháo ra bát, xúc một ít thịt lươn xào
thơm phức, thêm một chút nước sốt vàng ngậy, một chút hành, răm và những mảnh hạt
tiêu bắc li ti nhỏ mịn. Cháo lươn Nghệ An ăn với bánh mỳ rán giòn vàng ươm hay
bánh mướt lạ miệng.
4. Nhút Thanh Chương
Xứ Nghệ không chỉ có phong cảnh non nước hữu tình mà còn có
rất nhiều món ăn dân dã đậm đà bản sắc của vùng quê nghèo khó. Món nhút là một
trong vô vàn những món ăn như thế. Nhút là cách gọi quen thuộc của người miền
Trung, là quả mít muối mặn ăn với cơm tựa như món dưa muối của người miền Bắc
hay món kim chi của xứ Hàn vậy.
Người miền Trung vẫn kể rằng, quê hương gió Lào cát trắng
lam lũ quanh năm, cơm gạo cái gì cũng thiếu nên phải tận dụng tất cả những thứ
có thể ăn được thay cơm. Mà mít thì nhà nào cũng sẵn trồng, mít thường được luộc
chấm với chẻo (một thức chấm cũng rất đặc biệt của người Nghệ An), mà mít ngày
càng nhiều không ăn hết nên đã nghĩ cách muối mặn để ăn dần, từ đó món nhút
“chào đời” gắn với quê hương khốn khó.
Nhút Thanh Chương Cửa Lò
Huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An trồng được giống mít ngon
nhất xứ Nghệ.
Dọc miền Trung có nhiều nơi làm nhút nhưng ngon nhất, nổi tiếng
nhất vẫn là nhút do người Thanh Chương làm ra tại đất Thanh Chương, bởi nơi đây
nổi tiếng trồng được giống mít ngon của tỉnh Nghệ An. Thường thì mỗi năm chỉ có
một mùa mít, nên nhút được muối dùng để ăn quanh năm, tùy từng mùa mà chế biến
những món ăn khác nhau.
Vào mùa đông gió rét, nhút xào thịt ba chỉ nêm ớt, đường ăn
với cơm nóng rất ngon, vị chua chua của nhút, ngọt của đường, cay cay của ớt, sợi
nhút sánh lên quyện lấy mỡ của thịt ăn rất ngậy và giòn. Vào mùa hè, nhút có thể
làm nộm tai heo nhấm rượu hay đem nấu canh cá chua, canh lạc ăn bùi bùi chua
chua rất lạ miệng lại có tác dụng thanh nhiệt rất tốt cho cơ thể. Hay chỉ đơn
giản, nhút chấm nước mắm tỏi, rau kinh giới ăn cơm canh cũng ngon không kém.
Nhút là đặc sản miền Trung khiến nhiều người “thòm thèm” vị
mặn, cay và giòn tan ở miệng
được ví như kim chi của xứ Hàn.
Cách muối nhút cũng dân dã hệt như tên gọi của nó. Có thể làm
nhút muối xổi ăn ngay trong hai ba ngày, hay muối mặn để dành ăn quanh năm.
Nhút có hai loại, nhút làm từ mít xanh hay xơ mít chín đều tuyệt, tuy nhiên
nhút làm từ mít xanh thì cầu kì trong cách chế biến hơn. Nếu là mít xanh phải
chọn quả ương ương, trẩy trái mít từ trên cây xuống còn tươi nguyên, gọt sạch vỏ
gai bên ngoài, khi gọt nên để xả dưới vòi nước để tránh nhựa mít dính vào tay rất
khó rửa. Gọt xong thì dùng dao băm hoặc thái thành sợi từ ngoài vào trong, sao
cho toàn bộ múi, xơ, hạt mít đều được xắt nhỏ. Sau khi thái xong, đem ngâm vào
nước gạo qua một đêm cho mít hết nhựa, sợi mít được trắng, rồi vớt ra phơi săn
dưới nắng. Tiếp theo, cho tất cả vào vại sành rồi trộn muối, vò cho mít mềm ra
và muối ngấm đều sợi mít.
Còn với xơ mít chín thì đơn giản hơn, chính là tận dụng phần
xơ của quả mít chín sau khi ăn hết phần múi, nhặt xơ rửa sạch. Tương tự như mít
xanh, xơ mít cũng được trộn muối và vò cho ngấm đều vào mít. Khi cho mít vào vại,
có thể cho thêm ớt, mía, lá gừng hay củ sả, rau ngải và nước ngập mít, tùy theo
khẩu vị của từng gia đình mà nêm các gia vị cho nhút đậm đà hơn. Nhưng đặc biệt,
nhút phải nén chặt bằng phên tre, chặn gạch, sao cho nhút không nổi lên mặt nước
và bị thâm đen. Chỉ vài nguy trở ra là ăn được.
Nhút ăn giòn giòn, mặn của muối, cay xè của ớt, và dậy mùi
thơm của mít, thanh ngọt của mía đường…”quyện” một vị ngon rất đặc biệt. Ngày
nay, trong mỗi bữa cơm của người miền Trung không thể thiếu món ăn dân dã, bình
dị này. Tuy nhiên, ở những thành phố lớn, nhút lại có tên trong menu ẩm thực đặc
sản mà khiến nhiều người muốn ăn, ăn một lần nhớ mãi, cứ “thòm thèm” cái vị cay
chua mặn ngọt, hệt như dư vị của mảnh đất ân tình xứ Nghệ ...
Đó cũng là những kinh nghiệm du lịch Cửa Lò mà du lịch Kỳ Việt
tổng hợp. Nếu bạn có thắc mắc gì thì có thể liên hệ với chúng tôi:
Điện thoại: (024) 32424670
Hotline: 0972578692
0 nhận xét:
Đăng nhận xét